Truyện đêm khuya –
Truyện đêm khuya – Chiều nay dì Tư sao không ra bãi cào hến?
Hoàng hỏi người phụ nữ đang vãi thóc cho bầy gà nơi gốc ổi mà mắt vẫn nhìn ra mặt sông loáng nắng rồi chậm rãi mồi thuốc. Cũng bình thản như Hoàng, dì Tư đập nhẹ vành thúng cho rơi hết những hạt bên trong trước khi đem ra chái nhà lợp bằng lá dừa để cất. Lúc dì quay lại, mắt nhìn ra sông, miệng trách:
– Thằng hỏi lạ, mùa này nước lớn làm gì có dắt, hến.
– Ừ há, con quên.
Hoàng cười khỏa lấp, mắt vẫn nhìn sông. Mùa này nước đang lên cao, không rõ nước sông hay nước biển tràn vào. Đợt lũ vừa rồi còn đọng lại vệt bùn ngang gốc ô rô, phủ qua đám cóc kèn hoa trắng, vài vũng bùn còn đóng váng nơi Hoàng ngồi.
– Chừng nào mày vào trỏng?
– Mai giỗ nội, mốt con đi, đợt này chắc lâu về nghe dì Tư.
Anh lại nhìn sông, nắng chiều lấp lóa đổ dài, nước vẫn xuôi xuôi về phía cây cầu có từng nhịp đôi bờ đang xây dở. Bên kia là phố, gần lắm, thấy rõ từng mái nhà và cả người qua lại, cả màu sắc quần áo, xe cộ. Còn bên nay, là doi cát rộng nằm giữa hai nhánh sông. Đoạn cuối doi cát là xóm Đủi, nơi Hoàng đang ngồi, đang nghe tiếng sóng vỗ bờ.
– Trong đó mày hay gặp cha Sáu cà lết? – Dì Tư đã ra đứng bên Hoàng.
– Có, mỗi đận con xuống An Hiệp, ổng nhắc dì hoài, hình như… nhớ dì dữ lắm! – Hoàng cười cười nheo mắt nói thêm:
– Ổng gửi cho dì chai dầu dừa vì tóc dì làm ổng nhớ hoài, cứ dùng thả ga đừng để dành như mắm…
– Quỷ tha ma bắt mày nghe Hoàng!
– Thiệt mà dì, con để trong xách kìa.
Không nhìn dì Tư đang cúi mặt, một tay nắm quai võng, một tay đưa lên mái tóc đã nhuốm bạc. Thoảng trong gió, tiếng dì Tư ngập ngừng hỏi Hoàng:
– Ổng khỏe không mày?
– Dạ, bình thường, vẫn lai rai ba xị và nhắc dì hoài, toàn những chuyện… ngày xưa xa lắc.
Gửi Nắng Cho Sông – Huỳnh Thạch Thảo
* *
*
Trên chuyến tàu từ thành phố về quê nhà, Hoàng cùng chú Sáu ngồi cạnh nhau nơi băng ghế. Thời ấy, cũng chẳng lâu mà tàu chạy cà rịch cà tang đến ga nào cũng dừng, chờ đỏ mắt mới kéo còi chạy. May mà có chú Sáu chuyện trò nên anh quên cảm giác mệt mỏi, quên thời gian dài lê thê của cuộc hành trình. Té ra, chú Sáu từng ở vùng đất Hoàng sinh ra nơi có dòng sông và tháp cổ. Còn giờ thì chú ở tận Bến Tre, nơi có dòng Hàm Luông và những vườn dừa bạt ngàn.
– Qua từng ở vùng đất của cậu. Lúc ấy qua là lính chủ lực xuống đồng bằng phối hợp với địa phương đánh địch.
– Vậy lần này chú về ngoài ấy thăm đồng đội và chiến trường xưa? – Hoàng hỏi.
Chú Sáu chỉ cười nhẹ rồi kéo cao ống quần chỉ nơi khoeo chân có vết sẹo dài nhăn nhúm, nói nhỏ:
– Kỷ niệm vùng đất của cậu, vết sẹo này trong đợt đánh cầu sông Chùa. Bên trên lính ngụy ném cả chùm lựu đạn, tôi dính chấu thả trôi người về cửa sông. Đêm ấy nước đang ròng, tấp vào ven bờ có nhà dân nên chết hụt!
* *
*
Khi chia tay ở sân ga, Hoàng cho chú Sáu địa chỉ nhà mình, dặn chú nhớ tới để anh đưa đi thăm thú phố thị. Chú Sáu gật đầu, tấp tểnh bước, vai như lệch sang một phía dù chiếc ba lô màu cỏ úa phía đối diện cũng không cân bằng. Ba hôm sau, Hoàng mang giá vẽ, cọ màu sang sông tìm cảnh cho bức tranh anh dự định phác thảo. Lúc ở bến sông, anh chợt trông thấy chú Sáu trong nhóm người đợi đò.
– Kìa chú Sáu, chú qua sông à?
– Ủa, là cậu. Qua sang đò về xóm Đủi, định hôm nào ghé nhà cậu rồi lên tàu vào trong ấy cho tiện.
Hoàng theo chú Sáu về doi cát bồi, con đường dọc theo triền sông là những rặng tre, các khu vườn trồng rau đậu được ngăn cách từng bờ rào dâm bụt đầy tĩnh lặng, mát rười rượi. Thú thực, từ nhỏ đến giờ, Hoàng chưa bao giờ đặt chân vào xóm bãi bồi này, anh chỉ qua làng rau và đi sang sông Ba, nơi có những soi dưa, bãi mía lúc còn đi học. Trong trí tưởng của Hoàng, xóm Đủi là nơi có những ngôi nhà thấp nhỏ khuất trong các rặng cây um tùm biệt lập là những người dân làng ngày ngày vác nhủi cùng thúng mủng cào hến, bắt dắt. Giờ mới biết, xóm Đủi thiệt đẹp, thiệt yên bình dù cách con phố ồn ào xe cộ chỉ một quãng sông. Chú Sáu chỉ tay lên phía trên, nơi xa xa kia là cầu ba nhịp, bảo trong tiếng gió:
– Qua dính chấu chỗ cầu ấy, buông bộc phá thả trôi người về tận dưới này. Cả đêm ôm gốc ô rô dập dềnh trong nước, gà gáy sáng có người ra ghe thấy nên cõng vào. Đây, nhà này…
Và Hoàng quen dì Tư, người đàn bà nhỏ nhắn với nụ cười hiền, bẽn lẽn như con gái, ánh mắt như nắng chiều mặt sông cứ lấp lánh lấp lánh bên chú Sáu. Ba ngày liền, Hoàng hối hả phác thảo trên giấy những bức tranh với sông nước, con đường ủ bóng rặng tre, những khu vườn yên tĩnh… Bức đầu tiên là dưới gốc khế gãy ngọn gần giếng kề lu nước nhỏ, chú Sáu đang ngồi trên võng chải tóc cho dì Tư ngồi trên chiếc đòn kê cùng bầy gà con chạy quẩn quanh, phía sau là một dòng sông loáng nắng (riêng cảnh này phải mất cả buổi để năn nỉ hai người và phác thảo thật nhanh), Hoàng được đánh giá cao bức tranh mang tựa “Hạnh phúc” trong buổi tốt nghiệp và lập tức mang về ngay Bến Tra gặp chú Sáu.
– Hôm làm mẫu giúp cậu vẽ, qua ngượng với cô ấy lắm.
– Nhưng sao con thấy hai người tự nhiên lắm, lại cười duyên với nhau mới chết chớ!
– Thật ra, qua cũng từng ngồi bên cô ấy vào những đêm yên tĩnh chỉ có hai người, nhưng chỉ vuốt tóc rồi thôi. Phải nói mãi, bảo giúp cậu vượt qua kỳ thi tốt nghiệp và cứ nhớ cái thời ấy, là ngon lành!
… Cái đận chú Sáu tấp vào căn nhà dì Tư thì người phát hiện là ba của dì. Đêm ấy, khu vực cầu sắt sáng trắng đèn với lính hải thuyền bủa vây cùng bo bo lùng sục nên ông biết, đặc công đánh cầu nhưng thất bại. Mờ sáng, ông ra tháo ghe định cất kẻo lính đi càn ngứa tay bắn thủng thì gặp chú Sáu đã lạnh cóng. Ông cõng người lính ra bờ tre có hầm bí mật nơi từng giấu người anh dì Tư trốn lính đợi cơ sở hợp pháp đưa lên cứ. Cả tháng trời, gia đình dì Tư thuốc men chăm sóc chú Sáu. Cũng trong thời gian ấy, tình cảm hai người đã bền chặt.
Hoàng vẫn nhớ, lúc anh về An Hiệp gặp chú Sáu trong căn nhà ba gian hai chái lợp ngói âm dương, một con lộ tiếp giáp dòng kênh mà nơi này kênh rạch chằng chịt, đâu đâu cũng dừa là dừa, dừa ta dừa nước rợp bóng mát. Chú Sáu nhận từ tay Hoàng bức tranh “Hạnh phúc” với gương mặt rạng ngời ban đầu nhưng thoáng chốc lại đượm buồn nếu không nói là đỏ hoe mắt. Đêm ấy, nơi góc sân cũng có một ang nước cắm chiếc gáo dừa, cũng con đường nhỏ đi xuống một dòng sông lộng gió. Món lẩu cá kèo sôi sùng sục bên rổ rau cao ngọn như cảm nhận mùi hương đồng gió nội của miệt vườn ngào ngạt.
-Thật tình qua có lỗi với bả, chỉ một câu nói thôi trong một đêm nhiều sao trời “Đợi anh về nghe Tư” làm người ta đợi cả đời. Sau giải phóng, qua nghĩ chưa thấu đáo, cứ nghĩ mình thương tật sẽ làm khổ bà ấy nên trù trừ mãi rồi lại ngã bệnh mới ớn chớ, bệnh trên rừng về, đành thôi. Lâu lâu ra thăm thấy tồi tội. Cha bả mất đợt lũ, anh trai thì hy sinh trên đường về làng, dính Mỹ phục, còn má thì có biết mặt đâu, chết tám hoánh đời nào lúc bả vừa lên ba tuổi.
Giọng chú Sáu như người ngạt mũi làm Hoàng thấy nao người:
– Thiệt nghe Hoàng, lúc ở bên bả, qua thương nhứt là mái tóc. Chao, dài suôn đuột, mềm mại chảy qua lưng. Môi cắn chỉ nữa chớ, đỏ lìm lịm, cứ nghĩ là giòn rụm nếu bập vào, vậy mà hổng dám!
Hoàng sặc cười, không khí trở lại dễ chịu khi chú Sáu nhe răng, khua khua bàn tay:
– Khi về trong này, qua vào Hợp tác xã chế biến dầu dừa liền nghe. Biết sao hông? Làm dầu dừa để gửi bả bôi tóc chớ sao! Nói thiệt nghe, tay nhạc sĩ viết bài “Dáng đứng Bến Tre”, tài quá hễ nghe tới đoạn “Nhớ tóc ai dài…” là tao nghẹn vì nhớ. Vậy mà suốt ngày ở đây, làng trên xóm dưới cứ mở loa đài, ti vi máy hát ra rả ca hoài bài ấy, nghe mãi có điên không?! Bây giờ nhà qua chỉ còn mình qua, nhà đã cổ còn người thì cũ.
Gửi Nắng Cho Sông – Huỳnh Thạch Thảo
* *
*
…Cách đây hai tháng, chú Sáu gọi điện lên cho Hoàng bảo rảnh xuống chú chơi và gặp có chút việc. Vậy mà hơn tháng sau, Hoàng mới có dịp đặt chân vào ngôi nhà ba gian hai chái lợp ngói âm dương. Nhà quạnh quẽ vương vãi xác lá trên sân gạch. Thằng Đen nhà bên vạch hàng rào chui qua tới bên anh, nó hít hít lỗ mũi thò lò, nhe răng cười:
– Chú Hoàng đã về, ông Sáu ngóng mãi, giờ ổng ở trên nhà thương ấy!
Hoàng vội vã kêu xe đến bệnh viện. Phòng hồi sức vắng người nên anh nhìn ra chú Sáu nằm tận cuối phòng với bình dung dịch nhỏ giọt. Anh sững sờ. Mới đây mà người chú gầy xọp, da vàng chái, mái tóc bạc và rụng quá nửa, bụng lõm lòng thuyền thở nhẹ qua làn áo mỏng của bệnh viện. Mắt chú Sáu từ từ hé mở rồi định hình khuôn mặt người đối diện. Bàn tay gầy khô lạnh nắm lấy tay Hoàng lắc nhẹ với nụ cười mệt mỏi. Anh kéo ghế ngồi sát bên chú Sáu.
– Mới xuống hả Hoàng?
Hoàng ngường ngượng gật đầu và bật lên lý do không thể không nói dối:
– Dạ, có nghe chú nhắn nhưng con kẹt công tác ngoài Trung, sẵn tiện về thăm nhà luôn.
Gương mặt chú Sáu hiện rõ nét vui như có ý hỏi, nên Hoàng vội trả lời:
– Con có qua sông sang xóm Đủi thăm dì Tư. Dì ấy nhắc chú hoài, bảo lâu rồi chú không ra mà nhận chai mắm hến!
Chú Sáu gật đầu miệng méo xệch, mặt nhăn nhúm, nói đùa đùa:
– Ừ, hôm nào qua khỏe hẵng tính. Vào viện cả tháng mà chưa thấy đỡ, lúc hồi sức, lúc chuyển nội rồi tiết niệu, người bã ra như con mắm hến!
Người y tá đang đi lại phía giường chú Sáu, trên tay là chiếc bơm tiêm chứa dung dịch màu đỏ. Hoàng đứng lên nhường chỗ lúc chú Sáu nắm tay anh lay lay: “Ngồi với qua một lát nghe Hoàng”- “Được mà, con sẽ ở với chú cả đêm nay”. Hoàng ra mái hiên phòng bệnh, nhìn con đường phủ trong màn mưa, mưa miền trong khác mùa mưa quê anh, cả mùa nước nổi cũng khác mùa lũ ngoài ấy.
– …Thật với cậu, khi lên cứ, qua không còn bên đặc công vì cẳng giò ngon lành đâu mà đánh đấm, nên sang đội sản xuất. Thôi thì, chờ lúc đi ra Bắc kiếm cái chữ nhưng khi ấy đang ác liệt không có người, đi cũng dở. Mùa khô 72 địch cắt các tuyến đường nối đồng bằng nên đói dữ, lại bị chất phát quang khiến cây trụi lá, trơ cành. Một lần, vắng máy bay, qua đi dọc theo con suối cạn, phát hiện chiếc thùng ống tròn kẹt trong gộp đá. Mừng suýt khóc liền gọi cả tiểu đội khiêng về. Cứ nghĩ, bọn Mỹ thả cho quân nó. Mà khi ấy có thằng nào biết con chữ đâu mà lần. Cạy tung ra, toàn bột trắng, tiểu đội sợ chất độc nên mang đổ ra suối, chỉ lấy vỏ thùng đựng lương thực. Cái chết dần đến trong thẩm thấu, cậu à. Vì mãi sau này mới hay khi ấy máy bay rải chất phát quang đã đời thì nó lại ném lăn lóc trước khi về căn cứ ngoài biển.
Chú Sáu uất nghẹn hực lên trong cổ. Người chú sốt kéo dài, mồ hôi vã dầm dề dù bên ngoài mưa rơi, gió rít không dứt. Hoàng dùng khăn ướt đặt lên trán chú và bảo chú ngủ một lát. Nhưng chú Sáu mắt vẫn mở to, giọng ráo hoảnh, nói rõ từng lời:
– Hơn hai mươi năm sau đận giải phóng, chất Dioxin quái ác đã phát tán khiến cả tiểu đội lần lượt đưa tiễn từng người một, khổ thân nhất là những đứa có gia đình, con cái. Qua là người bị phơi nhiễm cuối cùng nên chẳng còn ai chia tay mình cả.
Đận 72 ấy, gia đình qua ngoài Hà Nội không thể sơ tán nên bị bom cào sạch tại phố Khâm Thiên, còn mình thì dính bệnh trên rừng. Người con gái bên dòng sông quê cậu đã luôn neo giữ hình ảnh của qua là một người lính đặc công kiêu hùng, càng không thể để cô ấy biết và không thể gặp mãi. Gọi cậu xuống là để cậu mang bức tranh về cho cô ấy, nói khéo là tôi bận đi xa nên nhờ giữ lại kỷ niệm của hai người.
Hoàng nghèn nghẹn khóc nhỏ lúc chú Sáu nới lỏng tay Hoàng để chìm vào giấc ngủ, khuôn mặt vẫn hằn nét đau đớn buồn bã. Mờ sáng, Hoàng ra bến trong màn mưa phủ mờ. Lúc sang phà Rạch Miễu, dòng sông trắng xóa vì mưa chang đổ. Anh nhìn về nơi chú Sáu từng ở kề dòng Hàm Luông. Chịu. Mưa đang trôi qua sông, kéo từng dề lục bình dập dềnh mải miết xuôi về các hướng.
* *
*
Rất khuya, Hoàng mới đứng lên từ giã dì Tư sau khi nói khéo để gửi lại bức tranh. Anh bước ra cửa, nhìn dòng sông lặng lờ yên chảy. Trời đứng gió không gợn mây hiện hằng hà sa số những vì sao nhấp nháy trên bầu trời tĩnh lặng. Dì Tư tiễn Hoàng ra đầu ngõ, anh nắm nhẹ tay dì nói nhỏ “Con sẽ mang cái nắng vàng của dòng sông vào cho chú Sáu…”. Dì im lặng lúc lâu rồi bảo “ừ, cho dì gửi lời thăm ông ấy, ráng giữ sức khỏe để hẹn một mùa hến…”. Hoàng quay đi, và vẫn biết dì đang nhìn theo bóng Hoàng đến khi khuất vào lối rẽ. Anh lại ứa nước mắt. Sáng nay, cha của cu Đen đã gọi cho anh: Chú Sáu đã mất ngay giữa mùa mưa tuôn đổ trên dòng Hàm Luông.
Hình như, trên bầu trời tĩnh lặng đầy sao sáng kia, văng vẳng tiếng vạc sang sông gọi bầy da diết…
Tác giả: HUỲNH THẠCH THẢO – Thực hiện: Đình Khánh
Từ khóaĐình Khánh đọc truyện đêm khuya
Xem thêm đề xuất
Cafe âm nhạc 12h – Mùa hè
RadioVn.Com – “Đẹp như ánh bình minh bừng lên giữa đêm tối …Đẹp như cánh đồng …