Nghe đọc truyện đêm khuya – Chờ ngày nắng lên, chờ mùa nắng ấm để xua tan những ngày đông giá rét, mong ngày mai cuộc sống sẽ đổi thay, có cơm no và áo ấm, số phận những con người ấy sẽ sáng sủa hơn, tươi đẹp hơn..
Páo thấy trong người mệt, bát cơm thứ tư bỏ dở. Dâu cũng chỉ ăn từng ấy bát là no rồi. Dâu dứng dậy trước, rồi đến Páo. Ông Sùng ăn chậm vào cuối bữa để canh mâm. Trên mâm gỗ chỉ còn ít cải đắng luộc và một bát muối ớt. Bên cạnh mâm, năm đứa cháu nội của ông đang xúm xít quanh cái bát tô bằng nhôm to đùng, mỗi đứa một cái thìa, nhăm nhăm ngoáy vào tô cơm trộn canh đỗ tương.
Đứa gái lớn bảy tuổi, xúc nhoay nhoáy, thìa nào ra thìa ấy, đưa vào mồm nhanh như thể nuốt chửng. Đứa trai năm tuổi còn đái dầm nên chỉ có áo mà không có quần, nhưng lại biết xấu hổ, cứ cúi xuống, chổng mông xúc một thìa vơi lại vội vàng đứng lên ngay ngắn, rồi mới cho vào mồm. Một tay cầm thìa, tay giữ vạt áo chàm, che chỗ ấy. Đứa gái lên bốn, mũi thò lò vừa ăn vừa gà gật vì bị gọi dậy sớm quá. Áo nó vấy đầy cơm canh, phần dưới từ đùi trở xuống cũng bám đầy cơm. Cũng như anh, nó chả có quần mặc, nhưng chưa biết xấu hổ, cứ hồn nhiên khoe ra mọi sản phẩm của ông tạo. Mùa đông, mưa lướt thướt cả tháng không ngừng, củi đun còn thiếu, lấy đâu củi mà sấy quần áo. Bao than cuối cùng ông Sùng không cho động vào, để sáng nay cõng lên chợ. Đứa gái ba tuổi cũng tô hô, cầm thìa lanh chanh ngồi sụp xuống, vạt áo nó sắp trùm lấy tô cơm chung. Nó xúc đi xúc lại mấy lần mới được đầy một thìa cơm nhão, ngửa cổ, há to miệng đút vào khá gọn. Thằng bé tuổi rưỡi tay cầm cán, tay điều chỉnh hướng thìa, đưa thìa cơm vơi vào miệng. Một phần ba từ chỗ cơm ít ỏi lại rơi ra đùi nó. Cũng như chị, nó ở truồng, cái chim bằng quả ớt gió tím lịm vì rét.
Ông Sùng đợi cái vòng tròn màu chàm nới rộng ra xung quanh tô cơm, chừng bọn trẻ đã no bụng ông mới đứng dậy. Dâu từ ngoài hè đi vào để dọn dẹp. Con lợn nái vác bầu vú thũng thẵng chạy vào sau, mót hạt rơi hạt rụng cạnh cái mâm gỗ như một thói quen. Dâu để mặc nó sục cái mõm to bàm bạp vào cái tô của bọn trẻ để vét cơm. Tội nó, nó mười con chứ chẳng phải năm con như Dâu.
Dâu chưa được đi họp phụ nữ bao giờ nên không hiểu thế nào là kế hoạch, cứ đẻ thôi. Đàn bà ở đây, nhiều người đẻ con, đàn con đông bằng đàn lợn. Đâu cứ phải cứ đi họp phụ nữ mới là phụ nữ. Cứ biết đẻ con là thành phụ nữ rồi. Phụ nữ Hầu Thào lên chợ kiếm tiền cả, còn ai mà họp hành. Trẻ con hàng đàn mà ruộng đất thì ít là nguyên nhân của việc đàn bà, trẻ em lũ lượt kéo nhau lên phố trông chờ vào du lịch.
Bọn lợn con đen trũi không nhảy qua được bậc cửa cao để vào nhà, chen lấn, dùng mõm vả nhau, kêu eng éc. Con lợn mẹ nhặt nhạnh xong xuôi thì nghiêng người lách vào gầm giường trốn con. Cái giường bị công kênh lên, những đứa trẻ ngồi trên đống chăn chiếu bừa bộn, cười nắc nẻ.
Giường bên kia, mẹ chồng Dâu đang kìm tiếng rên. Nó đau cái chân đấy. Cả mấy năm quần đảo nát các nẻo đường từ phố về bản, từ bản lên phố, không đau sao được. Cái khớp gối nó kêu răng rắc mỗi lần co, duỗi. Dâu thương mẹ chồng, cái thương thật lòng thật dạ mới có thể sai khiến người phụ nữ ngoài hai mươi buông tay nọ, bắt tay kia để mọi việc trong nhà đâu vào đấy. Để rồi mới hai mươi nhăm tuổi, mặt Dâu đã có khối nếp nhăn.
Việc tưởng chẳng có gì nhiều, nương nhà Dâu cũng ít. Vùng Hầu Thào này, đá thì sẵn còn đất hiếm lắm. Để có đất tra hết tạ ngô giống, vợ chồng Dâu đi xa nhà cả ngày đường. Lúa trên thang ruộng một vụ để đủ cho cái gia đình chín miệng ăn này cũng là cả một khó khăn mà không đồng sức đồng lòng không thể no ấm.
Có một sự phân công lao động ngấm ngầm trong gia đình Dâu. Ông Sùng cắm chốt, dựng lều tận ngoài Mường Tiên. Nơi ấy đất tốt, củ sắn to bằng bắp chân. Ông đi cứ độ nửa tháng mới về nhà lấy gạo, rượu, muối và thuốc lào một lần. Dâu và Sùng thì sấp ngửa với nương ngô hai vụ và một vụ lúa nước. Bà Sùng thì thêu thùa, khâu vá và đi bán hàng rong trên phố cho khách du lịch. Đứa gái lớn, buổi sáng lên nương, buổi chiều chăn trâu cắt cỏ. Còn bốn đứa nhỏ, tằng tằng gà vịt thì cùng ăn, cùng ngủ, cùng chơi và tự trông nhau.
Bà Sùng đau không đi rong được. Thế là không có tiền. Mà muối hết, ớt hết, mỡ hết, xà phòng hết, thuốc lào hết. Tất cả bảo nhau hết. Páo xui vợ xúc ngô đi bán. Bà Sùng ngóc đầu dậy kêu “Tao sắp hết đau rồi”. Dâu nói “Muốn hết đau phải mua thuốc uống”. Páo đưa mắt cho vợ. Dâu vừa ngó ngoáy đi lại cái gác còn lủng lẳng vài dúm ngô thì bà Sùng đã rên lên: “Bán ngô đi thì người và lợn gà lấy gì ăn? Chúng mày không thương anh em chúng mày sao?”.
Nhắc đến anh, đến em, sống mũi Páo căng đỏ, muốn vỡ. Trước đây, ba anh em trai ở chung một nhà. Người thì đông mà đất ít. Anh cả đem vợ và đàn con dứt áo ra đi. Đi về tận bên kia dãy núi Chúa. Người Mông ở đây gọi dải Phan Xi Păng là núi Chúa, vì Chúa to nhất. Bên kia dãy núi, đất rộng người thưa và cây thảo quả tốt ù ù, quả mọng tròn xoe.
Anh đi năm trước, năm sau ấm chỗ về đưa nốt vợ chồng đứa em trai của Páo đi. Thương nhau mà đi, không muốn tất cả chụm vào nhau để cùng đói nghèo. Thế nên, bán những hạt lúa hạt ngô chui ra từng những hốc đất hiếm hoi mà tất cả anh em cùng dốc sức khai khẩn là không nên. Để ăn thôi. Khi nào thừa ăn mới được bán.
Từ ngày làm dâu, Dâu chưa khi nào trông thấy hạt ngô thừa trong nhà.
Nhưng tiền đâu mà mua thuốc? Bao than kia tốt lắm được một trăm, chỉ đủ tiền muối, mỡ. Mấy cái chậu phong lan và xương rồng kia, nếu gặp mấy bác du lịch nhà quê chịu khó tha lôi, cũng chỉ đủ tiền mua thuốc lào và xà phòng giặt. Nhà khó sợ ốm lắm, vì thuốc trên phố đắt ghê đắt gớm.
Dâu chẳng nói chẳng rằng, rửa qua cái mặt cho đàn con thì hối hả giục chồng. Ông Sùng đã nhanh chân tụt xuống đường, bao than nghễu nghện trên lưng. Mọi khi, cõng than là phần Páo, nay ông Sùng dành việc ấy. Dâu xốc lên lưng cái lù cở đựng đầy phong lan, Páo cũng thế. Chẳng ai bảo ai, ba người lặng lẽ tiến lên chợ. Thi thoảng những bóng áo chàm cưỡi xe máy phóng qua. Ngày chợ, rợp đường tiếng xe máy. Người ngược phố cứ rầm rập, rầm rập. Mà khách xuôi về bản thăm thú thì ít. Mùa hè, thác người chảy xuôi, còn mùa đông, thác ngược. Cũng tại trời đất sụt sùi rét mướt. Ngồi không thì rét thôi, chứ đi hùng hục, làm quần quật thì lạnh này thấm gì. Năm nay chưa chết con trâu nào, sao gọi là rét được.
Đến con dốc cửa ngõ lên thị trấn, Dâu dừng chân vì thấy cả trăm người, toàn đàn bà, trẻ con bán hàng rong bị dồn lại đen nhức một khoảng đường. Thì ra đội tự quản đã cấm triệt để cảnh đeo bám khách chào mời. Dâu lách qua đoàn người đi lên. Ông Sùng cắm cúi bước, có cái gì đó giống như tủi, như nhục đang cộn lên trong ngực lão già sáu mươi. Páo đi sau cùng. Vì không thấy tùng tằng chăn, gối, túi thổ cẩm nên gia đình Sùng đi lọt.
Đến quán cơm quen thuộc, cả ba dừng lại. Ông chủ quán gọn lỏn “pùa” (trăm). Ông Sùng cố nài “Pùa pê mà” (trăm ba mà). Ông chủ cười nhạt nhắc lại “pùa”.
Ông Sùng biết không nài được thêm thì đành hạ thồ than xuống, nhận tiền rồi cả ba cùng đi. Bây giờ than Tàu rẻ, người ta không mua than của người bản địa nữa đâu.
Trưa lắm rồi mới bán hai giò lan đất, được bảy chục nghìn. Ông Sùng giục con dâu xuống chợ không có hết mỡ. Cầm hơn trăm nghìn trong tay, Dâu đi quanh chợ mấy lượt mới mua được ba cân mỡ vụn, một lạng thuốc lào, nửa cân ớt và một túi xà phòng rẻ tiền, hai cân đậu…
Mua xong rồi, Dâu bước thật nhanh qua những tiếng chào mời, hối hả ra khỏi chợ như thể vội lắm. Từ xa Dâu thấy ông Sùng ngồi ngủ gật, Páo thì đang lăng quăng xem chim của mấy gã bán chim cho đỡ buồn.
Thấy con dâu mang về từng ấy thứ, ông Sùng vui lắm. Nó quả là đứa biết lo liệu, thu vén. Thật cũng bõ trâu, bõ bạc cưới về. Ông khoe vừa bán thêm chậu xương rồng ba chục nghìn nữa, mắt lóe lên chút sung sướng. Lúc ấy đã hai giờ chiều. Hàng hóa ê hề, người bán thì nhiều mà người mua chả có. Khách ta không chịu được cái lạnh mùa đông ở Sapa nên dù ngày phiên cũng vắng vẻ. Còn Tây chỉ xem vì hiếu kì thôi chứ mua để làm gì?
Bữa cơm từ lúc mờ đất đến giờ chẳng còn ý nghĩa gì. Thực ra ông Sùng không đói lắm, nhưng cái nỗi nhớ bữa, nhớ cơm chợ cứ cồn cào. Cả tuần có ngày phiên, giờ này dưới chợ ẩm thực đông người lắm. Người ta uống rượu, ăn phở, trò chuyện rôm rả. Chân ông mấy lần chực đi. Nhưng mà không có nổi trăm nghìn trong túi mà vào quán thì nhục lắm, gặp anh, gặp em, cười nhạt với nhau sao được? Nó phí cả một phiên chợ đi chứ. Đời người sống được bao nhiêu?
Phải chi cái mụ vợ già nhà ông đừng ốm. Thì dù vắng khách, dù bị xua đuổi thì một tuần sau khi ăn tằn uống tiện và ngủ vạ vật hành lang, góc chợ nó cũng để ra được khoảng ba trăm mà dúi vào tay ông, để ông có cái mà giao đãi. Đằng này… Giờ nó ốm nằm đó, thuốc không có nổi một viên, uống thuốc cây mấy ngày rồi chưa đỡ. Ông có vào quán cũng chẳng nuốt nổi miếng gì.
Ông đưa ba mươi nghìn cho con dâu và bảo:
– Vợ chồng mày xuống chợ ăn đi, thằng Páo đang mệt, không ăn là ốm nặng. Tao vừa làm mấy điếu thuốc lào ấm bụng rồi.
Dâu lại đùn cho chồng và đưa nốt hai mươi nghìn cố tình nhắt lại khi mua sắm.
– Bố với anh Páo xuống đi, con không đói mà, sáng con ăn nhiều.
Đến lượt Páo cậy ốm:
– Con mệt không muốn nuốt gì, hai bố con xuống đi, xin về cho hớp nước là được.
Đùn đẩy mãi, cuối cùng ông Sùng thắng.
Nhìn con trai và con dâu lúc cúc nắm tay nhau đi tìm bữa trưa mà ông vui. Đợi hai người đi rồi, mấy bà ngồi bán hoa, bán thuốc, bán chim… mới lôi cơm nắm ra mời nhau. Họ ép bằng được ông Sùng một nắm cơm đã nguội tơi tả. Họ cắm cúi ăn, cái ăn nơm nớp vì sợ đang ăn bị quát. Nhưng không có tiền để ngồi bàn, ngồi ghế thì ăn thế này cũng được rồi, xong bữa là được. Cũng may, mấy ông trong tổ tự quản đi qua, thấm cái cảnh rét mướt và ngấm sâu lời răn “trời đánh cũng tránh miếng ăn” nên không quát tháo gì cả. Thực ra các ông ấy cũng chỉ quát khi họ quá trớn bày hàng tràn ra lối đi của các “thượng đế” du lịch thôi. Có ông còn buột miệng thốt lên “ngon gớm” khi thấy con bé lên năm đưa cả nắm cơm to như quả bưởi lên miệng gặm.
Xong bữa trưa, cái rét như bị xua đi, vật vờ trên những tàng lá cóng lạnh thi thoảng buông xuống một chiếc lá úa vàng.
Họ gọi hai bát phở thịt quay. Đó là món vô cùng yêu thích của Páo. Chủ quán hỏi “Có uống rượu không?”. Páo lắc đầu. Chỗ thân quen, anh chủ quán còn trẻ rót đầy cái cốc thủy tinh nhỏ rượu gạo và bảo. “Lâu lắm mới gặp, tôi mời anh đấy”.
Páo, dù đói ngẫu, nhưng vẫn đủng đỉnh múc một thìa ớt xào, ba muỗng ớt ngâm vào bát phở. Sau đó là chút hạt tiêu xay, một chút mắm và cuối cùng là mấy cọng rau thơm.
Ngồi bên cạnh chồng, Dâu cũng làm y như vậy với bát phở của mình. Páo chậm rãi uống từng ngụm rượu nhỏ. Dâu uống từng thìa nước phở. Páo trộn gia vị và thịt lên thật đều. Dâu gắp hết chỗ thịt quay vào bát của chồng rồi mới trộn. Páo gắp trả lại, Dâu lại gắp sang. Dâu ngồi nhích ra, vẫn uống nước phở. Páo hết cốc rượu, hết thịt thì chuyển sang ăn phở. Bát phở của Páo vơi, Dâu lại gắp bánh phở của mình sang bát chồng. Gắp qua, gắp lại, cuối cùng Dâu nghiêng bát, trút sạch phở vào cái bát của chồng và đứng dậy thật nhanh đi về phía cái chậu bát rác, nhấn cái bát của mình xuống đó. Páo bẽn lẽn nhìn chủ quán và tự hào liếc xung quanh. Dâu ngồi cạnh chồng, canh đến lúc bát phở của Páo cạn, nhìn rõ những hạt ớt như vàng lắng dưới đáy bát.
Hai người đi lên cổng chợ, Dâu dùng dằng bảo Páo lên trước. Dâu quay lại khu chợ thổ cẩm. Bà chủ quán thấy Dâu thì niềm nở:
– Có gì bán không em? Dạo này chị ế quá.
Chị ta nói như vậy là phát tín hiệu mua rẻ nhưng Dâu vẫn thoăn thoắt cởi cái thắt lưng của mình ra. Cái thắt lưng với hai lá to màu xanh rêu rất đẹp thêu bằng tơ tinh xảo. Dâu thêu cả năm trời để chuẩn bị diện tết đấy. Người con gái Mông có khéo léo, đảm đang hay không, nhìn cái thắt lưng thêu là biết. Trước, Páo mê mệt cô cũng bởi những đường thêu…
– Một trăm thôi nhé.
Dâu gật đầu, gỡ cái khăn xuống buộc thay cho thắt lưng và đi về phía hiệu thuốc tây. Lát sau Dâu hớn hở đi ra với mấy vỉ thuốc xanh đỏ. Quay trở về quán cơm, cô mua một chai rượu nhỏ và hai quả trứng gà luộc.
Đặt hai quả trứng gà và chai rượu vào tay bố chồng, Dâu cười tươi, để lộ đôi má lúm đồng tiền. Đúng là người có má lúm đồng tiền chẳng mấy khi cùng quẫn vì tiền, Páo vẫn thường đùa vợ thế.
Ông Sùng nhìn thấy cái khăn đội đầu ở thắt lưng thon thả của con dâu thì chợt hiểu. Trong đầu ông hiện về cái cảnh kéo vợ của thằng Páo năm nào. Bao năm qua đi, chúng vẫn say nhau đến thế, hợp nhau đến thế…
Quả trứng vừa bóc xong thì bọn trẻ con trong công viên bò ra. Chúng theo mẹ đi bán hàng rong. Mẹ bị đuổi, con không chạy được, ngồi dưới gốc cây đợi, thấy người lớn ăn quà, chúng bò ra. Chia nốt hai quả trứng cho bọn trẻ xong thì trời cũng đổ đầy sương ướt những chậu hoa ế. Về thôi. Còn bọn trẻ con ở nhà. Còn bà già ốm ở nhà. Chầu chực mãi thế này cũng ốm mất.
Họ lại xếp một hàng dọc ngay ngắn trên đường. Ông Sùng đi trước, Páo đi giữa và Dâu đi sau cùng. Mùa giá rét, ngày chợ phiên, dòng thác người màu chàm chảy ngược lên thị trấn. Chưa hết hàng, họ chưa đành về, vì nhiều nhà giờ phải đong ăn. Than củi, rau củ quả, thuốc men, nấm, mộc nhĩ… Rừng núi này có gì, còn gì cũng tìm ra và đem bán hết, những mong đắp điếm, vá víu cho kín, cho lành ngày tháng, đợi mùa nắng ấm.
Páo hắt hơi mấy cái vì lạnh, nước mũi đổ ra. Hai năm nay Páo chưa có thêm bộ áo nào vì Dâu nhiều việc quá, vụ vừa rồi gió lốc, lanh đổ rạp, hỏng hết. Nhà lại đông người, tết đến bọn trẻ con mới cần quần áo đẹp chứ người lớn thế nào chả được. Cả chục năm nay ông Sùng mặc lại đồ cũ của các con trai, cũng có sao đâu. Có một bộ mới, chỉ đám ma, đám cúng ông mới diện.
Nghe tiếng Páo sịt soạt, ông Sùng đi chậm lại, sát cạnh con trai. Dâu cố đi vượt lên, che chắn cho chồng. Đường vắng, gió lộng dưới thung lũng lên, vướng mặt Dâu không thể tới mặt Páo. Gió ở trên núi dội xuống mắc người ông Sùng và cái cở to nên không chạm đến ngực Páo.
Ngày phiên giá rét, đường vắng, họ Giàng đi hàng ngang về tận nhà.
Tác giả: T.N.H – Phát Thanh viên: Phương Hằng