Đọc Truyện Đêm Khuya – Cái năm Tây về lập bốt ngay đầu đình, nhiều nhà phải bỏ làng tản cư đi các nơi. Đến năm Tây thua ở Điện Biên Phủ rút chạy vào Nam thì những nhà ngày trước đi bây giờ lại lần lần trở về.
Bác Thậm về muộn nhất, mà về một mình. Những đưa trẻ chạy theo, đố nhau đoán xem ông ấy là cán bộ hay là bộ đội. Đứa nào tò mò thì đến đếm xem trên áo ông có mấy cái huân, cái huy, ông mặc áo đại cán bốn túi hay áo lính trơn hai túi, thắt lưng da.
Thậm với tôi là anh em họ. Thậm bậc trên. Thậm trở về làng nhưng Thậm ở đâu hay công tác đâu, tôi không biết. Chỉ thấy Thậm vẫn cao to, mặt gồ ghề xương hóc. Thậm mặc áo cổ Tôn Trung Sơn, ka ki màu xi măng, đi đôi giày tây đen, đầu đội mũ cát két tím, lưỡi trai bóng nhoáng. Thậm dắt cái xe trâu Trung Quốc, quan trọng là cái xe đạp đeo biển sơn xanh, xe biển xanh là xe cơ quan, xe của nhà nước. Cán bộ cỡ nào mới được cấp trên cho đi xe đạp công. Thế là Thậm đã là cán bộ khá rồi.
Tôi hỏi:
– Bác công tác tận đâu mà bây giờ mới về?
– Ở trên Việt Bắc. Bận quá, không lúc nào dứt ra về chơi được.
Rồi Thậm hỏi lại tôi một câu thân mật:
– Cái lão thịt chó ở gốc cây đại trên chợ còn chứ?
– Còn.
– Hay đấy! Tớ thết chú. Chẳng mấy khi. Chợ quê vẫn tản mát thế, chỉ đông vào ngày phiên. Chủ quán gầy gò ngồi lù lù sau cái mâm thõng. Thịt luộc xả ra bày lên những tàu lá chuối. Chậu mắm tôm, cái bát đàn riềng ớt thái sẵn, một rổ rau ngổ, húng quế, mơ tam thể bề bộn cạnh một lũ vò rượu nút lá chuối.
Tôi hỏi Thậm:
– Nhớ lão quán này không?
– Nhớ chứ, quán rẻ nhất, lão bán tinh chó chết bả.
– Tây bắn ông lão ấy chết năm kia rồi. Thằng này là thằng con cả ngồi nối ngôi đây.
Thậm nhìn lại chủ quán rồi im lặng như biết rồi. Lát sau, Thậm hỏi tôi:
– Chú có gặp anh cán bộ hồi bí mật… anh gì nhỉ?
– Cán bộ Bản.
– Phải rồi, cán bộ Bản. Có gặp không?
– Thấy bảo rồi ngày ấy anh Bản đi Nam tiến.
Tôi cũng ngạc nhiên nghe Thậm hỏi thăm cán bộ Bản. Bởi tôi còn nhớ một việc xấu hổ cho Thậm hồi sắp Tổng khởi nghĩa.
Trưa hôm ấy, cán bộ Bản vừa đi vào làng thì một bọn lính khố xanh với lính Nhật thình lình ập về vây ngoài luỹ. Bí quá, tôi đưa cán bộ Bản sang nhà Thậm. Đằng ấy xóm vắng có lối trổ xuống đồng thoát ra được Thậm đương vác cái giậm, sắp ra ngoài đìa càn cá. Thấy tôi và người lạ, Thậm đoán được ngay. Thậm hạ cái cán giậm, quỳ xuống chắp tay:
– Lạy các ông, các ông đi ra ngay không thì chết cả bây giờ.
Hôm sau, Thậm chửi tôi:
– Mày dắt hội kín về, định gieo vạ vào nhà ông à? Tiên sư mày?
Thậm uống hết chén rượu, rồi nói như kể chuyện:
– Tớ quên thế nào được cán bộ Bản. Gay go thế thì chuyện phải nhớ đời chứ. Lúc ấy tớ vạch trổ bờ tre sau nhà, rồi lấy cái thúng bơi đưa cán bộ Bản sang bên kia sông an toàn. Bọn Nhật vây đằng đầu làng trơ mắt chẫu ra, không biết. Thế Việt Minh mới tài chứ! Ha, ha…
Chốc chốc, Thậm lại hỏi:
– Chú có nhớ không? Chú có nhớ không.
Câu chuyện dựng đứng thật ly kỳ mà thật cụ thể khiến cho tôi đâm ngờ ngợ cả trí nhớ tôi, hay là thế thật, tôi quên cũng nên.
Từ đấy, đôi khi bác Thậm thường về nhà tôi.
Bây giờ thì bác Thậm với tôi đã thân hơn, tôi đã quen lối chè chén suồng sã và kiểu ăn nói phét lác của bác và cũng được biết bác thật hơn.
Tôi hỏi Thậm:
– Các người tản cư đã về làng cả, bác còn nấn ná trên ấy mãi sao?
Bác Thậm nói:
– Mười mấy năm công tác rừng xanh núi đỏ lặn lội đến ngã nước, chết đi sống lại nên trên mới ưu tiên, các anh ấy cho được về nghỉ sớm. Lại nghĩ đã quen thung quen thổ, thôi thì đất nước đã độc lập, đâu cũng là nhà, ở đâu chẳng được.
Những thương, những giận – Tô Hoài
Tôi đã có lần lên chơi nhà bác Thậm. Kể ra nhà bác cũng chẳng xa xôi núi đỏ rừng xanh tận đâu, chỉ qua huyện Chương Mỹ sang đầu huyện Lương Sơn đã đến. Bác gái chuyến đi rừng kiếm măng về ngâm lại buôn chè tươi ngồi bán ở chợ huyện. Thằng con cả bác lái xe tải thỉnh thoảng có chuyến Sơn La – Hoà Bình lại lai bố đi chơi.
Nó bảo tôi:
– Tính bố cháu hay huếch một tấc đến giời, cho người đi đây đi đó một chuyến về khoe cả tháng chưa hết chuyện.
Rồi dần dần tôi hiểu hơn cái nông nỗi bác Thậm không muốn về ở làng. Bác hay đi vắng, xóm giềng thì thào bác là công an chìm, có tuổi rồi mà vẫn phụ trách công tác đặc biệt. Thật ra, bác thạo chạy chợ, các chợ nửa quê nửa đường ngược. Bác Thậm buôn thừng, chão ở ô Cách đem vào các mối bán chợ Bắc Qua, có khi ngược chợ Phương Lâm, chợ Bờ mua giang, nứa, đay, tre.., tải về cho các thổ đánh thừng ở ô Cách. Sắp Tết lại thồ ống giang về các hàng làm lạt gói bánh chưng, bánh giò. Thằng con tài xế phổi bò đã thuộc tính bố, lại nói giễu: ấy chỉ thương nghiệp dân doanh vậy mà bố tôi đi đâu cũng đóng đại cán, cái xe đạp biển xanh. Khi về đến nhà lại chững chạc cái kính đen bí hiểm, cái túi da đeo vai làm túi tài liệu kỳ tình trong để mấy tờ báo. Đôi khi bác Thậm đạp xe thong dong như cán bộ trung ương về quê chơi.
Một hôm bác Thậm khẩn khoản mời tôi. Bác nói lý do:
– Phiên chợ này có việc vui với mấy ông bạn ở địa phương. Chẳng là sắp bầu lại hội phụ lão, anh em muốn giữ ở lại khoá mới. Tiếng là nghỉ mà đã được nghỉ đâu. Mệt quá. Thế nào cũng lên chơi với tớ nhé.
Tất nhiên, chẳng nói tôi cũng biết là bác Thậm có việc cần tôi thế nào chứ chẳng phải chơi không. Hôm ấy đánh chén thịt vịt. Đương mùa vịt Bàu Bến béo, cái xương cũng như cái sụn mà đánh tiết canh thì tuyệt cú. Mấy ông khách đến chơi, nghe loáng thoáng mỗi lúc bác Thậm giới thiệu với tôi ông uỷ ban, ông đảng uỷ, người này người này, tôi lờ mờ đoán được ý bác Thậm.
Rồi Thậm nói về tôi, chỉ một câu như đinh đóng cột:
– Báo cáo các đồng chí, chú em tôi đây, anh em chúng tôi đã cùng nhau hoạt động từ bao nhiêu năm còn bóng tối, nằm ổ rơm, ăn sắn trừ bữa, rải truyền đòn, đánh Pháp đuổi Nhật.
Tôi nghĩ ngượng và bực. Nhưng chẳng nhẽ nói thế nào. Hôm sau, đưa tôi ra bến xe buýt, bác
Thậm nói:
– Thế là ăn chắc chân chủ tịch, chú ạ.
Ít lâu sau, bác Thậm lại về chơi. Bác bảo bác đi công tác, nhân tiện tạt vào. Bác cởi ở xe đạp ra một bọc bún lá với gói nilông mắm tôm đồng, cả củ sả, gừng, tía tô. Bác bảo: “Thịt chó chính cống Cầu Giẻ đấy!”. Cái chão còn quấn chồm cả lên yên xe với hai vành bánh bùn đã khô lở từng mảng. Chắc là bác vừa tải chuyến thừng chão về ô Cách rồi qua đây có việc chẳng phải tình cờ.
Quả nhiên thế.
Mấy chén vào rồi, bác Thậm cười khớ khớ, bảo:
– Chú biết đấy, tôi đã đi rải truyền đơn, tôi đã hoạt động từ ngày bóng tối với cán bộ Bản. Thế mà phần thưởng lão thành, thưởng tiền khởi nghĩa, tôi chưa có cái gì cả. Thiệt thòi lắm, phải không chú? Tôi nghe mà gai cả người. Tôi nghĩ bụng, dạo trước mà tôi chẻ hoe với bác sự thật về cái hôm chạy mật thám Nhật ở làng thì tôi đã rảnh thân. Nhưng tôi đã trù trừ, rồi tôi câm miệng hến. Tôi nghĩ giật lùi thì nó lại cứ xưng xưng ra thế này rồi tôi đâm ra quên cả tôi. Tôi chỉ còn hăng máu lúc tôi một mình.
Thậm thì thào:
– Bây giờ xin chú chứng nhận cho tôi, chỉ có chú mới chứng nhận được cho tôi.
Tôi không dám làm chứng không phải vì tôi biết Thậm không hoạt động và tôi dám lật tẩy Thậm. Mà tại chỉ vì tôi biết thể thức chứng nhận hoạt động cách mạng phải có hai người cùng hoạt động ở thời kỳ ấy ký vào làm chứng thì mới bảo đảm giá trị. Biết thế, nhưng tôi lại chỉ lờ mờ hoãn binh. Để tôi nghiên cứu các văn bản thế nào rồi tôi nói lại với bác.
– Cần lắm, chú cố gắng cho. Chả là có bạn tôi đương làm tổ chức trên huyện uỷ, cả trên tỉnh uỷ.
Tôi cũng đớp mấy chén rồi, tôi lại đương hăng:
– Tôi đã bảo mà. Bác vô tư đi.
Tuần sau, bác Thậm lại xuống. Tôi lo, nhưng lo thế nào thì cái câu trả lời cũng phải có, mà tôi không còn lối nào để huênh hoang được.
Tôi thở khướt một cái:
– Em chẳng có cách nào giúp được bác.
– Sao thế?
– Luật đã ra là phải có hai người cùng hoạt động, cùng ký chứng nhận, một người không ăn thua.
Nói được thế rồi, tôi được đà, tôi chửi vu vơ:
– Bây giờ lắm người chữa lý lịch, khai man, xoay xoả gian dối lắm.
Tôi trông thấy bác Thậm nhăn nheo, rúm lại, bàn tay run bần bật. Thế là tôi mất hứng lại sinh ra động lòng và thương bác Thậm. Có thể giá lúc ấy có ai ký cho bác Thậm thì tôi cũng cầm bút ngoằng một cái theo cũng nên. Bác Thậm thẫn thờ thở một hơi như người nhả khói thuốc lào.
– Thế là tôi tay không, tôi công cốc. Chú bảo tôi làm thế nào?
Tôi chỉ còn biết một câu nói lại lờ mờ:
– Tôi đã báo cáo cả với bác rồi.
Thậm ngồi thừ một lúc, rồi như nhớ ra:
– Bây giờ chỉ làm thế nào mà gặp được cán bộ Bản thì mới xong được. Có phải không chú?
Tôi lặng yên.
Thật ra tôi đã gặp Bản. Nhưng lúc này tôi đâm ngại, không muốn vẽ chuyện mà sinh sự vơ vào mình làm gì, cái thằng tôi cả nể.
Chuyện tôi gặp lại Bản cũng là tình cờ. Lần ấy tôi sang ô Cách, ngồi nghỉ chán uống bát nước chè tươi ven đường… Tôi trông thấy đi qua ngoài kia một ông lão dường cũng chưa già mấy nhưng lưng đã còng, bộ quần áo và cái mũ bộ đội đã xám xỉn. Ông xách bốn cái lồng chim gáy. Trời hơi lạnh, mỗi lồng phủ vuông lụa điều như các cụ ngày trước chơi chim gáy hay bọc cái lồng quả vả vào mùa rét như thế. Cái ông gánh bốn chiếc lồng chim gáy đã là lạ, nhưng với tôi càng thật ngạc nhiên, bỗng nhiên mà bồi hồi.
Tôi nhớ chim gáy ở miền Nam thì bay rợp trời, nhiều vô kể. Cái ông lão quẩy chim đang đi ven sông Đuống này chẳng khác những bác già sành điệu gác cu đương thẩn thơ mà mải miết chăm chú lội ruộng qua các cánh đồng liền bờ ở Vĩnh Long, ở Bạc Liêu. Không phải các tay chơi này bẫy cu, gác cu đem bán chợ, đem nướng chả. Không, các lão này gác phải con cu dở thì thả ra, thì ném xuống sông, được con cu tướng mạo hay, mỏ nhọn đuôi thon, gáy như hát thì nuôi luyện thành cu mồi – có những con cu mồi đã ở cả đời với người gác cu, trường thọ đến ngoài năm mươi năm.
Ông lão gác cu, cái tai lúc nào cũng khoái tiếng cu cao thấp, giọng đồng giọng chuông, giọng thổ lại mê man nhìn hai con vờn nhau trước cửa cụp, trên đồng mênh mông cánh cò, hai chân bước giữa trời đất giữa đồng không, chỉ tràn đầy tiếng cu gáy. Những cái điều còn làm tôi đến ngân ngơ cả người. Ấy là ô hay trông cái ông lão gánh bốn lồng chim gáy ở quãng đường này sao giống cán bộ Bản thế. Đã đành ngày ấy Bản, khỏe mạnh, tầm thước, nhanh nhẹn, không gầy còm thế này, nhưng mà cứ hao hao. Đến lúc ông gánh chim ngước mặt bước lên tam quan đình cạnh gốc đa, thì dẫu cho đã bao nhiêu năm cách xa rồi, tôi vẫn trông ra ra anh Bản thuở ấy.
Tôi bước đến, chắp tay:
– Chào ông. Ông đi chơi.
– Chào ông.
Ông già cười đáp:
– Người đi chơi thì cũng cho chim được đi đổi không khí chứ. Thê mới công bằng, có phải không?
Tôi rụt rè:
– Xin lỗi ông, tôi hỏi điều này khí không phải, ông có phải là cán bộ Bản cái hồi Việt minh không?
Ông nhìn tận mặt tôi, rồi giơ bàn tay gồ ghề, xương xẩu nắm vai tôi, lắc lắc:
– À anh… anh… – Rồi ông ôm chầm lấy tôi – Nhớ rồi, nhớ cái hôm chạy Nhật… Nhớ rồi…
Thế là anh Bản với tôi ngồi chuyện suốt cả trưa sang chiều bên hốc cây đa. Vậy là anh đi Nam tiến rồi ở lại chiến trường miền Nam cho đến khi đất nước thống nhất.
Nửa đời người chiến trường khi thì ở chủ lực, khi sang địa phương quân là cán bộ tổ chúc du kích huyện là bộ đội tỉnh. Giải phóng rồi, trở về miền Bắc và giải ngũ. Ở ô Cách. Vùng đây cũng chẳng phải quê anh mà chỉ là nơi có khi đóng quân lâu từ ngày trước khi đi Nam tiến. Ông đại tá về xin làng đất làm nhà, rồi ở đấy như quê. Anh Bản nài tôi đến nhà anh chơi ngay hôm ấy ở mấy hôm cũng được, nhưng tôi hẹn khi khác. Thế rồi nấn ná lâu lâu đâm ra ngại. Đã mấy lần định đi rồi lại thôi.
Ấy thế nhưng rồi việc lại chẳng đừng. Bác Thậm lại về chơi. Đã thành lệ, xe của bác thế nào cũng đèo cái bọc, cái gói. Lần này bọc lá chuối tươi to lù lù. Mở ra thì là mấy gói quà, quà rẻ thôi nhưng không phải mấy khi đã dễ kiếm mà bác vòi tôi là dân ưa nhấm nháp với đôi ba chén. Ấy là gói bún lá, hai chục cái đậu phụ nghệ nướng. Bây giờ chỉ có mấy nơi chợ búa quê xa mới còn bán cái món lôm lam ngày xưa này. Đậu phụ nghệ vàng nướng để nguội uống rượu chấm với muối, cắn ớt cả quả.
Và thế nào bác Thậm cũng có chuyện mới, chẳng khi nào không. Bác Thậm thưỡn mặt ra một lát, rồi thì thầm như thờ ơ nói một mình:
– Tôi vận rấp quá. Có đứa tố cáo tôi khai man lý lịch, tôi không phải đảng viên. Chúng nó đòi đấu tôi.
Quả là việc nghiêm trọng. Tôi hỏi:
– Thế thì bác thấy thế nào?
Bác Thậm quắc mắt, quát:
– Chú lại hỏi anh thế nào? Chú cũng nghi anh à?
Tôi nhẹ nhàng:
– Là em hỏi bác đã giải quyết như thế nào ấy mà.
Bác Thậm xắn một bên tay áo, sừng sộ.
– Tôi phải cho chúng nó biết tay. Tôi phải giết, giết hết.
Nghe bác Thậm nói trừng trợn thế mà trong bụng tôi lại êm ả. Thật tình, cả tôi cũng ý ngờ bác chứ chẳng phải ai. Bác vào đảng khi nào mới được chứ? Thiên hạ bây giờ cơ man người man trá, tôi chẳng tin mấy ông tự nhận, lại có cả người chứng nhận nữa, đã “tham gia” từ năm tuổi mười ba mười bốn, bây giờ là cán bộ tiền khởi nghĩa, là cán bộ lão thành. Những năm ấy nước ta chưa có cơ quan lưu trữ, chưa có nghề lưu trữ. Cái năm tôi hay anh chuyển công tác, thường chỉ là cầm lý lịch đem về nộp cơ quan mới. Thì tội gì mà tôi chẳng mở ra xem, chẳng chữa, chẳng thêm bớt. Ở chỗ khai sinh, tôi chữa chữ số 0 sang số 8, ở mục khác thì khéo thu xếp cho khớp, kéo thêm 8 năm hay 18 năm mới đến tuổi hưu. Ngon ơ. Ấy là tôi còn ngù ngờ, chứ ma mãnh như bây giờ người ta còn vá lắp được khối chỗ, tôi còn giật được mấy cái bằng trình độ chính trị trung cấp cao cấp và bằng các thứ chuyên môn nghiệp vụ nữa chứ chẳng chơi. Tôi ấy chứ không phải ai, kể gì bác Thậm.
Nghĩ thế tự dưng tôi lại đâm ra thương cho thân phận bác Thậm. Cả đời loay hoay vừa bốc phét lại vừa dối trá, mà cũng là người làm ăn tử tế mình nai lưng ra xoay xở lấy miếng cơm manh áo chỉ có cái là cứ lúc nào cũng muốn cao cao thì bây giờ lại ngã ngửa ra, thế cũng là khốn khổ thôi.
Tôi thương bác Thậm thật, bác chưa được là cái đinh, khối đứa còn táng tận, còn muối mặt gấp vạn bác. Bác Thậm ơi, bác Thậm, tôi thương bác.
Tôi gật gù bật nói:
– Bác ạ, tôi đã gặp cán bộ Bản, ừ cán bộ Bản tôi đã gặp.
Bác Thậm để rơi bịch cái chén không xuống chiếu, trợn tròn mắt, kêu:
– Ối giời ôi?
Rồi hét:
– Thế thì phen này chúng mày chết rồi.
Tôi không để ý cơn giận dữ sung sướng đến phát rồ của bác Thậm. Tôi nói thong thả những việc sắp làm:
– Tôi đưa anh đến chơi nhà cán bộ Bản. Chắc là bác ấy mừng lắm, bác ấy đã có hẹn tôi mà. Bác ấy và tôi sẽ viết giấy xác nhận cho anh. Tôi đã nói phải có hai người cùng hoạt động chứng nhận cho lý lịch cho thành tích.
Ngồi giữa chiếu rượu mà bác Thậm cứ thở hổn hển như người đương chạy cật lực. Còn tôi trong lúc rượu vào, tôi thấy tôi đương thông cảm với anh em, tôi vẫn được, tôi chẳng mất gì. Phiên chợ sau, bác Thậm xuống nhà tôi. Đằng sau xe chằng thừng đay một cái lọ, trong có đôi gà trống tơ, một buộc chè Thái, bọc cái lá gồi, lại một quả mít chín cây vừa mở mắt vàng hây.
Nhưng mà cái hôm tôi bốc đồng muốn đưa ngay bác Thậm đến nhà cán bộ Bản, lúc ngủ dậy lại tần ngần không còn hăng như đang khi ở trong chén rượu. Đến lúc trông thấy bác Thậm xăm xăm đi vào thì tôi nhụt hẳn chẳng còn được như hôm trước nữa. Thế là cái vạ miệng đã đưa việc đến đít rồi, không lủi đi đâu được.
Bác Thậm đẩy cả cái xe đạp thồ lỉnh kỉnh như thế đi với tôi dật dờ sang ô Cách. Đến quán bà bán nước chè tươi hôm trước, rẽ vào làm bát nước nhân tiện hỏi thăm đường.
Bà hàng như nhận ra người quen, lại nghe hỏi thế, mặt bà tươi tỉnh hẳn lên. Bà giơ cái gáo, chỉ ngay:
– Cái ông vẫn gánh lồng chim đi chơi phải không? Hai bác sang qua bờ ao đình rồi vào xóm hỏi nhà ông đại Gáy thì trẻ con lên ba cũng biết. Rồi lại biết thoạt đầu người làng chào hỏi ông là đại tá chim gáy, sau rồi thân hơn thì đâm nhờn, bây giờ quen gọi tắt là ông đại Gáy. Ông đại Gáy chỉ móm mém cười đùa lại: “Đứa nào rủ được ả ấy ả ấy về ở với ông đại Gáy thì hay đấy”. Đàn bà con gái ô Cách cũng chẳng vừa, còn nói lỡm nhả hơn mà chắc bà hàng nước này cũng được một mũi. Bà kêu: “Giời ơi là giời, đứa nào đến ở nhà ông để nghe chim ông gáy cả đêm thì còn ngủ nghê lúc nào nữa”.
Những thương, những giận – Tô Hoài
Nhà ông đại Gáy không ở ngay xóm Đình nhưng quả là ai cũng biết. Trẻ con ríu rít hội nhau chạy theo dẫn đường chúng tôi.
Nếp nhà một gian hai chái mái lá cọ, mặt ao bên kia vườn tha bè củ ấu lẫn rau muống. Lối cổng vào đầu ngõ kê rải rác những hòn đá tảng mặt phẳng vừa bước, phòng những hôm mưa ngập. Hai bên giàn thiên lý và kim ngân treo chim gáy, có đến hàng mấy chục, hàng trăm lồng quả vả không đếm hết được. Mỗi khi người đi qua, những con chim gáy rối rít cong cổ dạng chân cúi đầu cất tiếng gáy. Như những chiếc đồng hồ quả lắc, cứ đúng giờ thì nhả chuông liền liền. Ái chà chà, tiếng đồn thật không ngoa về ông đại tá chim gáy, ông vua chim gáy.
Trong nhà, bàn khách ấm chén tinh tươm, sạch bóng nhưng ngăn nắp, gọn ghẽ quá mà lành lạnh: có thể đoán được nhà người i có tuổi ở một mình với vùng trời và mặt đất toàn chim gáy.
Ông đại tá đương rửa cái cuốc, rồi ông từ cầu ao bước lên sân. Cả trăm con chim từ ngoài đầu ngõ vào hai lên vườn lại nhao nhao gáy rập rờn…
Trông thấy, ông đại tá nhận ra tôi ngay reo to:
– Ô mày! Tao đợi mày mãi!
Rồi ông đại tá nhìn bác Thậm. Ông đại tá bỗng mở chừng mắt, dựng ngược ca lông mi, lông mày:
– Nam, thằng Nam? Ối giời ơi, thằng Nam!
Ông đại tá nắm hai vai Thậm lắc lắc, hai hàng nước mắt đổ lã chã. Ông nói đứt quãng không la đầu không ra đuôi:
– Mày chết rồi kia mà. Chỉ có một mình tao nhảy ra khỏi hầm được. Ối giời ơi, tao thắp nhang cho mày kia. Có phải thằng Nam? Thằng Nam: mày là con ma hay mày là thằng Nam?
Ròi ông lập cập kéo chúng tôi sang bên vườn. Trong giữa luống đất có một búi gừng và một cây bằng lăng rợp bóng đang ra hoa tím tùng đám như cây rừng miền Đông trong kia. Bên gốc bừng lăng là một cây hương cao ngang mặt. Một cái lư hương đắp hình con chim gáy đồ sộ, trên lưng con chim khoét thành cái đỉnh thắp hương. Hai bên dụng hai hàng bia đá nho nhỏ. Ông đại tá nói:
– Bao nhiêu năm, đánh bao nhiêu trận, tao nhớ được thằng nào hy sinh thì tao khắc tên vào bia đặt lên cây, anh em thờ nhau ở đâu. Chiều nào tao cũng thắp hương thỉnh một hồi chuông chiêu hồn chúng nó.
Ông đại tá đánh diêm châm một nén hương cắm vào hình lưng con chim cu chi chít chân phương. Ông nhấc một tấm bia. Trên mặt bia khắc dọc dài những hàng tên người. Nước mắt ông đại tá nhỏ cả xuống mặt bia ông miết ngón tao cái chùi vào hàng chữ khắc: Liệt sĩ Nguyễn Văn Nam hy sinh ngày… ấp Sóc Đồn, xã Hùng Hội…
– Tên mày. Tên mày đây… Anh em nào mà tao nhớ được, tao khắc vào.
Rồi đột nhiên ông đại tá cười to, cười sằng sặc như người lên cơn. Ông vừa cười, vừa khóc:
– Nam ơi. Mày! Mà thật còn sống à? Thế mà tao cứ tưởng mày đây kia mà, làm sao mà mày sống được?
Ông đại tá tức tốc rối rít la lệnh:
– Chúng mày với tao dồn mấy con gà đằng chuồng, bắt mấy con cũng được. Chúng mày làm gà. Tao buộc cái chũm, xuống ao kéo mấy con cá. Ở đây, ở đây mấy hôm… ở với tao vài tháng, ở mãi cũng được. Mày kể cho tao nghe hết, nghe hết từ trong hầm ở ấp Sóc Đồn, nó thả lựu đạn xuống, rõ ràng mày chết rồi mà mày lại về được tận đây là ra làm sao?
Bác Thậm mặt tái ngoét, run lẩy bẩy:
– Cho tôi ra.., mua thuốc…
Tôi hỏi:
– Bác mua thuốc gì, tôi đi cho.
Bác Thậm lắp bắp: “Không, không”, rồi bác Thậm lật đật lom khom chạy ra chỗ để xe đạp. Cân chè, quả mít và đôi gà vẫn buộc sau xe. Bác Thậm đùng đùng lôi cả cái xe ra cổng. Ông đại Gáy giật giọng hỏi tôi:
– Nó đi đâu thế?
Tôi nói:
– Nó lên cơn động kinh ấy mà.
Tôi lúng túng không nói hết câu. Ông đại tá cau mặt, buồn hẳn, rồi trầm ngâm:
– Thằng này đã nhiều phen hụt chết lắm rồi, tôi biết, tôi đã chứng kiến. Cái dạng thần kinh này không bao giờ lành được. Có khi còn điên nữa. Anh chạy theo xem nó mua thuốc gì mua cho nó. Hay là dỗ nó, đưa nó vào Trâu Quỳ. Đây gần bệnh viện Trâu Quỳ, người ta có thuốc chuyên trị thần kinh.
Tôi lúng túng chưa biết nên thế nào, ông đại tá lại gọi tôi:
– Anh không đi một mình được. Tôi phải đi với anh ra giúp nó mới được.
Tôi vội can:
– Anh mặc tôi, tôi thuộc bệnh nó rồi. Anh cứ ở nhà, còn thịt gà, còn chũm cá chứ.
Ông đại Gáy nghe tôi, vác cái chũm xuống ao. Bác Thậm mất hút từ hôm ấy. Cũng không lai vãng xuống nhà tôi nữa. Còn tôi cũng lẩn thẩn, đâm ra ngày một nhát như con cáy. Cả đầu hôm ngồi bó gối, nghe tiếng ô tô chạy trong phố ra qua đầu nhà hay có khi chỉ một tiếng ai gọi cũng hốt hoảng giật mình. Không biết tại sao.
Tác giả: Tô Hoài – Thực hiện: NSUT. Việt Hùng
Từ khóaTô Hoài truyện đêm khuya Việt Hùng
Xem thêm đề xuất
Cafe âm nhạc 12h – Mùa hè
RadioVn.Com – “Đẹp như ánh bình minh bừng lên giữa đêm tối …Đẹp như cánh đồng …